Đề bài: Phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương
Phân công
Tú Xương là một trong những nhà thơ có cảm quan nhạy bén trước sự đổi thay của nhân tình thế thái. Xã hội của Tú Xương bao đời là một xã hội đang bị đảo lộn mọi thứ, ngay cả giá trị thiêng liêng nhất của tình yêu cũng đã mất đi, tình người với người chỉ còn là thứ tình cảm hời hợt của mua bán, đổi chác? dễ. Giữa cái xã hội nhố nhăng ấy, nhà thơ đã giữ cho mình một tình cảm cao quý nhất, đó là tình thương vợ. Thương vợ là bài thơ hay ghi lại tình yêu chân thành của nhà thơ dành cho vợ với sự cảm thông, chia sẻ, biết ơn cũng như một sự tự trách, tự trách mình về trách nhiệm của người chồng.
Quanh năm buôn bán trên sông mẹ
…
Có chồng hờ hững cũng như không.
Tú Xương ngay từ đầu đã tỏ ra là một người chồng quan tâm đến vợ, thấu hiểu công việc của vợ:
Quanh năm buôn bán trên sông mẹ
Nuôi năm đứa con với một người chồng.
Công việc kinh doanh của bà Tú là công việc chính để nuôi chồng con. Quanh năm, không chỉ một ngày hai chị buôn bán mà quanh năm, quanh tháng, liên tục, không ngừng nghỉ. Những khó khăn của Tú kéo dài trong nhiều năm. Dòng sông mẹ là không gian kinh doanh của cô. Đó chính là vùng đất nhô ra bên bờ sông Vị Hoàng chảy qua thành phố Nam Định, một vùng đất rất chênh vênh, bấp bênh, không kiên cố, sẵn sàng đổ ập xuống sông bất cứ lúc nào. Đó là lúc tôi nhìn thấy sự nguy hiểm đến tính mạng của cô ấy và những khó khăn, vất vả trong công việc kinh doanh. Ở đây, không gian sông mẹ, thời gian quanh năm đậm màu hơn là hình ảnh bà Tú tần tảo, ngược xuôi. Bà là người phụ nữ nhiều đời và điều đó với bà Tú lại càng rõ ràng.
Đoạn thơ sau nâng vị trí của chị lên thành trụ cột gia đình, còn người chồng bị hạ xuống bậc ăn bám, là gánh nặng cho vợ. Nuôi năm đứa con với một người chồng. Cách đếm năm con có chồng rất đặc biệt. Nhà thơ đặt người chồng như những đứa con cũng phải nuôi nấng như một người đàn ông nhỏ bé như một đứa trẻ, vì vậy họ phải đếm ngang một miệng ăn, hai miệng ăn. Từ này đủ để cho thấy mức độ giáo dục đó. Bà nuôi ông không chỉ cơm ăn, áo đủ mặc mà còn có chút rượu để ông ngâm nga, quần áo mới để ông vui với bạn bè. Bà Tú quán xuyến mọi việc, vừa nuôi vừa chu cấp cho ông. Gánh nặng chồng con đè nặng lên vai bà Tú. Người phụ nữ như thân phận của chị chỉ biết nâng khăn sửa túi cho chồng, lo làm ăn cho chồng gánh vác, vậy mà chị phải bứt ra khỏi cuộc sống êm đềm, bước vào dòng đời xô bồ để lo miếng ăn. cho sáu cái miệng. , làm công việc của chồng đủ thấy chị đã hy sinh tất cả cho chồng con. Hiểu được hoàn cảnh của vợ, quý trọng những công lao của vợ chứng tỏ nhà thơ rất yêu vợ, yêu vợ tha thiết.
Hai câu thực tiếp nối mạch cảm xúc của sự cảm thông, chia sẻ:
Lặn tìm cò nơi vắng
Mặt nước vào mùa đông
Công việc của cô ấy ở đây hiện lên rất rõ ràng. Bà Tú ngược xuôi khi một mình băng qua con đường dài vắng vẻ, có khi cãi vã, xô xát ngay trên sông với những chuyến đò đông đúc. Đó là công việc khó khăn của cô ấy. Lặn lội, eo hẹp thể hiện bản chất khó bán. Thương trường là chiến trường, nhường miếng ăn cho nhau đâu dễ, hóa ra bà Tú cũng va phải lời qua tiếng lại, làm loạn cả non sông. Đoạn thơ gợi cho ta liên tưởng đến thân phận người phụ nữ xưa qua câu thơ:
Con cò bơi bên sông
Mang cơm nuôi chồng khóc.
Con cò già và thân cò dường như có một nét tương đồng. Hình ảnh so sánh độc đáo ấy càng làm cho hoàn cảnh của bà Tú thêm đáng thương. Bà Tú chẳng khác gì dáng cò, gầy gò, dáng đi chậm chạp, một mình, luộm thuộm, luộm thuộm. Đối lập nỗi cô đơn, lẻ loi của nàng với sự cô quạnh trong sa mạc và vẻ tấp nập, tấp nập của đoàn thuyền đông đúc, nhà thơ cùng cực đã bỏ lại những nhọc nhằn, vất vả để duy trì cuộc sống của chồng con. . Anh Tú hiểu điều đó. Và anh không thờ ơ. Đằng sau mỗi con chữ là một nỗi niềm chất chứa trong lòng. Anh ngưỡng mộ cô vì sự chịu đựng quanh năm, khen cô vì cô hết lòng vì chồng con, nhưng trong lòng anh trào dâng một nỗi tủi hổ, tủi hổ: Anh tự trách mình chưa làm tròn trách nhiệm của người chồng. . Bà Tư biết được tâm sự của ông như vậy chắc cũng vơi đi phần nào gánh nặng và trong lòng chắc chắn sẽ được an ủi, động viên.
Khó khăn, gian khổ là thế nhưng bà Tú không một lời than vãn. Ngày ngày, công việc cứ lặng lẽ trôi đi như chính cuộc sống của chị:
Một duyên hai duyên
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Những câu thơ như lời nói rất tự nhiên, nhiều âm điệu, có thể coi là lời của mình. Nhưng xưa nay cô chưa bao giờ than thân trách phận, cô chấp nhận tất cả, giấu kín trong lòng mình bao nỗi buồn đau. Anh Tú vì thương vợ đã thay mặt cô lên tiếng. Tục ngữ dân gian nói vợ chồng là duyên số. Tú Xương rất đúng khi nói về bà Tú, cuộc đời bà vừa là duyên vừa là nợ, một là hai, sướng do số phận thì ít, vất vả do nợ nần thì nhiều, số phận là vậy. Rồi tôi đành phải chấp nhận. Dám quản của công, không dám trả, không dám đếm của công dẫu có gian lao, sương gió, năm mưa mười. Đã chạy vào số phận làm sao thoát ra được, câu thơ kết thúc bằng một thanh sầu thân phận càng gây thêm cảm xúc dồn nén. Bà Tú hẳn đã nhiều lần bức xúc, thấy sao cuộc đời bất công, muốn phản kháng nhưng bà đã kìm chế, chấp nhận im lặng để nhẫn nhục, cam chịu. Nước mắt cô chảy ngược vào trong, cô giữ chặt trái tim mình, không muốn ai biết được nỗi lòng và nỗi đau của mình. Các con số một, hai, năm, mười và câu thơ ngắn 2/2/3 thể hiện tâm trạng khắc khoải, sâu lắng của bà và kéo dài cuộc đời gắn liền với công việc không bao giờ kết thúc. Đến đây, Tú Xương hoàn toàn nhập tâm vào người vợ để lắng nghe từng nỗi niềm sầu muộn của nàng. Ẩn sau đó là biết bao nỗi niềm của anh, một người chồng đau khổ để mặc cho vợ mình ngược xuôi mà không giúp được gì? Đoạn thơ gửi gắm nỗi nhớ thương vợ và sự tự trách bản thân sâu sắc.
Ở hai câu cuối, tình cảm dường như được bộc lộ mạnh mẽ, không phải là tình cảm nhẹ nhàng như trước mà là một lời chửi rủa thâm độc:
Cha mẹ sống một đời bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Lời nguyền không phải của bà Tú bởi bà đã chấp nhận và chịu đựng nó đến hết cuộc đời. Ông Tú mong bà chửi để bớt gánh nặng trong lòng ông, ít ra bà coi ông khác con cái. Sự dồn nén, ép buộc anh phải mượn lời cô để nguyền rủa chính mình. Một người chồng chỉ biết ngồi ăn, không quan tâm, đôi khi phán xét, ra mặt, soi mói vợ hết chỗ này đến chỗ khác, có còn xứng đáng là một người chồng? Anh tự trách mình là người bạc tình, lạnh lùng, thờ ơ, vô trách nhiệm… Sự thờ ơ của anh càng khiến cô đau khổ gấp ngàn lần. Dù gánh nặng vật chất chồng chất bà Tú cố gắng lo cho mình nhưng sự thờ ơ, ngược đãi, không chia sẻ sẽ khiến bà suy sụp ngay. Một người chồng như thế cô không cần, có hay không. Dùng chính mình, nhà thơ khái quát hiện tượng trên thành một thói quen của cuộc sống, nghĩa là nó rất phổ biến, thường xảy ra. Đó là đặc điểm của xã hội đương đại mà nhà thơ đã sống. Ý nghĩa tố cáo của đoạn thơ là làm nổi bật bản chất xấu xa của xã hội coi thường tình cảm, danh dự, danh lợi, tiền tài. Đoạn thơ khép lại bằng một liên tưởng nhẹ nhàng không tưởng hướng người đọc vào chiều sâu tâm trạng chất chứa những cay đắng, giận hờn của người chồng và nỗi khổ đau của người vợ.
Đoạn thơ là tiếng nói chân thành ca ngợi, cảm phục, sẻ chia, đồng cảm với những vất vả, nhọc nhằn của bà Tú và cũng là lời tự trách móc, tự trách mình của ông Tú. Phải yêu vợ, yêu vợ đến mức nào thì một nhà thơ mới viết được bài thơ xúc động và chân thật đến thế. Sự hòa quyện giữa trữ tình và trào phúng đưa người đọc đến với những cảm xúc sâu sắc, giản dị và trân trọng ẩn chứa trong trái tim nhà thơ vốn ghét nhân thế đổi thay. Tú Xương qua bài thơ nhắn gửi đến các ông chồng: hãy nói lời yêu thương và chia sẻ nhiều với vợ.
Đề bài: Phân tích bài thơ Thương vợ của Tế Xương
Phân công
Tú Xương là nhà văn trào phúng xuất sắc của văn học trung đại. Ông thuộc tầng lớp nho sĩ cuối mùa, sống giữa thời kỳ giao thời, khi thời đại phong kiến đang suy tàn, những giá trị xưa đang mai một dần mà cái mới chưa hình thành, những nét đẹp truyền thống mai một. phá vỡ. … Bởi vậy, thơ ông đượm chất sầu, chua. Nhưng chất trào phúng trong thơ ông chỉ là “chân trái” còn “chân phải” còn chất trữ tình. Thơ ông luôn chất chứa những trăn trở, trăn trở, rộng thì liên quan đến xã hội, hẹp thì liên quan đến gia đình và bà Tú – người vợ không thật đảm đang. Bài thơ Thương vợ đã thể hiện đầy đủ chất trữ tình cũng như trào phúng đó trong thơ ông.
Thơ xưa viết về vợ rất hiếm, nhất là khi vợ còn sống. Còn với Tú Xương, ông không chỉ viết về vợ mà còn có một đề tài riêng về bà Tú: Nhức mắt, Văn tế sống vợ, Tự vấn mình,… Điều đó đã cho thấy vị trí và ý nghĩa to lớn của người vợ. trong cuộc sống của cậu ta.
Hai câu đối của tác giả giới thiệu khái quát về bà Tú cũng như công lao to lớn của bà đối với gia đình:
Buôn bán quanh năm ở ven sông
Nuôi năm đứa con với một người chồng
Tú Xương đã miêu tả rất chính xác về nghề nghiệp của bà Tú, đó là buôn bán gạo ở ven sông. Công việc của chị có tính chu kỳ, đều đặn quanh năm, dường như không lúc nào chị được nghỉ ngơi, có thời gian cho riêng mình. Không gian cô ấy làm việc cũng đầy nguy hiểm. Bà Tú quanh năm phải làm lụng vất vả, chịu nhiều vất vả, là trụ cột của gia đình. Cô ấy không chỉ phải nuôi con mà còn phải chăm sóc chồng. Vì vậy, một người phụ nữ phải nuôi sáu miệng ăn trong gia đình. Trong câu thơ, Tú Xương tự tách mình ra khỏi năm người con, cho thấy ông tự ý thức được gánh nặng của thân mình đối với người vợ nhiều hơn là năm người con. Nếu như các con chỉ cần đáp ứng nhu cầu ăn, mặc thì với anh Tú, ngoài những nhu cầu cơ bản còn phải đáp ứng sở thích ăn uống. Câu thấp một nụ cười tự giễu.
Nỗi vất vả, nhọc nhằn của bà Tú tiếp tục được tô đậm trong hai câu tiếp theo: “Bơi lội thân cò khi quãng vắng/ Mặt nước thu đông buổi sáng”. Đảo ngữ: đẩy “bơi” “eo” lên đầu câu làm nổi bật nỗi vất vả, cực nhọc của bà Tú trong cuộc mưu sinh. “Đò đông” gợi lên sự nguy hiểm của việc đi lại buôn bán hàng ngày “Không lội sông sâu, đò ngang chớ qua đò đầy”. Hình ảnh bà Tú được miêu tả qua hình ảnh ẩn dụ “thân cò” đầy ám ảnh, gợi hình dáng mồ côi bé nhỏ, chịu đựng, bơ vơ. Hình ảnh cái đang hoạt động vốn là mẫu gốc trong văn học dân gian vừa thể hiện sự hối hả, tất bật của người lao động, đồng thời gợi sự đồng cảm trong bạn đọc. Câu 3, 4 với hình ảnh ẩn dụ “thân cò” kết hợp với từ láy đầy cảm xúc “lặn lội” đã khắc sâu nỗi vất vả mưu sinh của bà Tú.
Nhân duyên vợ chồng, còn “nợ” là gánh. Nếu hai người có cuộc sống tốt đẹp thì đó là nhân duyên, cuộc sống trái ngược và bất hạnh là duyên nợ. Trong câu thơ: “Một duyên, hai nợ, một phận/ Năm nắng mười mưa nào dám quản” cho thấy duyên với chồng thì ít mà nợ nhau thì nhiều. Ông Tú thấy mình là cái nợ, là gánh nặng suốt đời của bà Tú. Nhưng bà Tú không than trách điều đó mà hết lòng hy sinh, như một lẽ tự nhiên, âm thầm hỏi han hay than phiền bất cứ điều gì với ông Tú. Với 6 câu thơ đầu, Tú Xương đã khắc họa một cách chân thực và đầy đủ nhất vẻ đẹp của bà Tú, tấm lòng nhân hậu, chịu thương chịu khó vì gia đình.
Chỉ đến hai câu thơ cuối hình ảnh ông Tú mới hiện lên:
Cha mẹ sống một đời bạc
Có chồng hờ hay không!
Lời chửi mắng vô cùng gay gắt, ném vào đời cũng là tự mắng mình. “Thói đời” – những luật lệ hà khắc của chế độ phong kiến, sự phân biệt đối xử, trọng nam khinh nữ, coi việc nhà và mưu sinh là của phụ nữ. Đó là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến đã sản sinh ra cuộc sống lưu manh, những bất công vô lý. Lời nguyền đó xuất phát từ tình yêu và lòng biết ơn vô bờ bến của Tú dành cho vợ.
Tác phẩm là sự Việt hóa thể thơ tám chữ bảy chữ. Tú Xương có sự đan xen, kết hợp hài hoà giữa trữ tình và trào phúng, trong đó trữ tình là chủ đạo để thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với vợ. Đây cũng là một nét đặc sắc, độc đáo trong thơ Tú Xương. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Hình ảnh thơ quen thuộc, giản dị tạo cho câu thơ vẻ đẹp tự nhiên, chân chất nhưng vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ.
Với dung lượng một bài thơ ngắn nhưng Tú Xương đã mang đến những nét vẽ đầy đủ và trọn vẹn nhất về vẻ đẹp và nhân cách, đức hi sinh cao cả của bà Tú dành cho gia đình. Đồng thời, đây cũng là những bài thơ tự hài về sự bất lực của chính mình. Ngoài ra, bài thơ còn thành công về nhiều mặt: ngôn ngữ, hình ảnh, sự kết hợp giữa trào phúng và trữ tình.
Đề bài: Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
Phân công
“Văn chương nằm ngoài quy luật băng hoại. Một mình nó không thừa nhận cái chết. Thơ Tú Xương là một trong những trường hợp như vậy. Thân mình hơn 100 năm đã tan làm một với đất mẹ, nhưng sự nghiệp văn chương của con người tài hoa ấy vẫn không ngừng lay động lòng người, bất chấp mọi thử thách của thời gian. Nhắc đến Tú Xương ta không thể không nhắc đến “Thương vợ”, một bài thơ trữ tình với nụ cười hóm hỉnh, vừa tự giễu vừa thể hiện tình yêu, sự kính trọng đối với người vợ đã tận tụy hy sinh hết mực. một đời vì chồng, vì con, vì gia đình.
Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ là bà Phạm Thị Mận. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết, ông là một trí thức phong kiến kiểu nhà Nho “Lưng dài đắt giá” phải nương nhờ vào vợ. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một mình bà Tú cáng đáng. Điều đó đã đi vào thơ văn của ông “Tiền trao cho đàn bà kiếm” hay “Hỏi ông quan ai lấy lương vợ”. Trong bài thơ Thương vợ cũng vẫn là những vấn đề đó được thể hiện sâu sắc qua tám câu thơ bảy câu và tám câu Đường luật.
Hai câu kết mở ra một không gian, thời gian và công việc của bà Tú. Một công việc vất vả, gian nan và vô cùng gian khổ:
“Quanh năm buôn bán trên dòng sông mẹ
Nuôi năm đứa con với một chồng”
Nghề kinh doanh theo quan niệm của người xưa là con đường làm giàu đầu tiên. “Không buôn bán thì không giàu” nhưng việc làm của bà Tú thì hoàn toàn ngược lại. Địa điểm buôn bán ở đây không phải là bãi đất tốt, bằng phẳng mà ở “mom sông”. Theo cách hiểu của Xuân Diệu: “là nơi bấp bênh, không ở bến sông tấp nập thường ngày”. “Mom sông” đã cụ thể hóa địa điểm kinh doanh của bà Tú_ nơi “đầu sóng ngọn gió”, đối mặt với muôn vàn hiểm nguy khi nước xuống, nước lên, nước lên. Thời gian ở đây là “quanh năm” ngày này qua ngày khác. Thời gian dài không bao giờ nghỉ ngơi. Một công việc nặng nhọc, vất vả mà người vợ phải gánh vác để chăm sóc gia đình.
Xưa nay với quan niệm “trọng nam, khinh nữ”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết nên” những việc lớn như kinh tế gia đình đều phải do đàn ông gánh vác, mà người chịu trách nhiệm đó ở đây chính là Bà Một người phụ nữ đảm đang, đảm đang có thể “một chồng nuôi năm con”. Đủ ở đây để đủ cơm đủ áo. Một người đi làm và ăn với bảy miệng ăn khiến tôi thấy trách nhiệm nặng nề đặt lên vai một người phụ nữ gia đình. Trong câu thơ này, nghệ thuật đối xử với năm người con được dùng ở số nhiều, nhưng lại được đặt ngang hàng nên đối với người chồng là số ít. Cái ăn cái mặc đủ cho năm đứa con bằng số tiền nuôi một người chồng. Như chúng ta đã biết, cuộc đời ông Tú ngắn ngủi và giản dị 37 năm, dường như chỉ gói gọn trong ba việc chính: đi học, đi thi và làm thơ. Năm 15 tuổi bà bắt đầu đi thi, 22 năm còn lại bà vẫn đi thi, mỗi lần vào trường trải tám màn lều bạt, bao nhiêu tiền của, chi phí đều một tay bà Tú lo liệu. .
Khép hai câu miêu tả không gian, thời gian và công việc của bà Tú sang hai câu thực mở ra hình ảnh “thân cò”:
“Lặn bão chỗ vắng
Nước trên mặt thuyền rất đông”
Câu thơ gợi cho ta hình ảnh quen thuộc trong văn học dân gian: “Con cò lội qua bến sông/ Gánh gạo cho chồng tiếng khóc khe khẽ”. Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận người phụ nữ Việt Nam vất vả sớm hôm chăm lo cho gia đình. Bà Tú ở đây là thân cò một thân một số phận cụ thể gợi lên một sự mong manh, bé nhỏ trước cuộc đời. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ “thân cò lặn lội” để làm cho hình ảnh ấy trở nên cụ thể và sâu sắc hơn.
Chắc hẳn bà Tú cũng không quên lời dặn của người xưa “sông sâu chớ qua đò đầy”, nhưng vì cái ăn cái mặc của gia đình mà bà phải liều lĩnh đối mặt với hiểm nguy. chỗ rồi phải “nuốt” chỗ đó. đò đông”. Hai tính từ đầu và cuối câu vừa gợi hình, vừa gợi cảm. Dường như nhà thơ rất thông cảm, xót thương cho thân phận của vợ nhưng dường như nàng lại rơi nước mắt trước hình ảnh đó. Hai câu thơ có thể coi là hay nhất trong bài thơ cũng như cảm động nhất khi tái hiện hình ảnh người vợ trong thơ Tú Xương.
Nếu như ở bốn câu đầu tác giả với tư cách, vai trò người chồng đứng ngoài “khách quan” để quan sát, nhận xét và đồng cảm với bà Tú, thì bốn câu sau Tú Xương lại lọt vào vòng trong. tâm tư, tình cảm của người vợ để lên tiếng phàn nàn “chủ quan” và đúng hơn.
Hai bài văn là những lời than thở mà Tú Xương đã nói thay cho nỗi lòng của người vợ:
“Một số phận, hai khoản nợ, số phận”
Năm nắng mười mưa, dám quản công.”
Từ “mệnh” theo nghĩa Hán Việt có nghĩa là cái duyên làm nảy sinh một việc gì đó. Theo quan niệm của Phật giáo, số phận của trời định cho con người gặp nhau, có thể yêu nhau và trở thành vợ chồng, giúp những đôi lứa yêu nhau gắn kết trong cuộc sống. “Tu tu trăm năm mới nên bạn, tu ngàn năm mới chung chăn gối” dân gian hình thành nên một cặp duyên nợ. Theo quan điểm của Tú Xương, duyên nợ chỉ có một mà có đến hai. Nghĩ cho kỹ bà Tú lấy được ông Tú cũng là một cái duyên, nhưng với người chồng “hờ hững” ấy, bà mắc nợ nhiều hơn. Bởi thế mà sự vất vả của một người đã được nâng lên thành vận mệnh của cả một đời người. Vì là duyên nợ, là “định mệnh”. Âu có nghĩa là chịu đựng, là chấp nhận. Vì phải chịu đựng và chấp nhận rằng, “năm nắng mười mưa nào dám quản công”. Số từ theo thứ tự: một, hai, năm, mười được sắp xếp tăng dần cho thấy sự khó khăn chồng chất lên vai bà Tú. “Ấu phải phận” và “dám quản công” được đặt ở cuối mỗi câu thơ thể hiện cách ứng xử của một người vợ luôn nhẫn nhịn, chịu đựng tất cả vì chồng con.
Khép lại bài thơ, hai câu kết được nâng lên thành lời chửi rủa. Nghe giọng bà Tú, Tú Xương nguyền rủa sự vô liêm sỉ của bố mẹ chồng và sự vô dụng của chính mình đối với vợ.
“Cha mẹ sống một đời bạc
Có chồng vô tâm hay không”
Xưa nay, mẹ chồng thường là “nỗi kinh hoàng” của các nàng dâu, bởi quan niệm phong kiến về hôn nhân cho phép người ta “mua” vợ cho con chẳng khác gì mua một người không có công ăn việc làm nhưng lại đối xử tệ bạc với mình. con dâu. Ta đã từng thấy những câu chửi nhẹ nhàng mà thâm thúy ấy trong những câu ca dao như: “Lời đồn cha mẹ mày hiền/ Cắn cơm chẳng bẻ, cắn tiền bẻ đôi” hay “Trách mẹ cha/ Cầm cân chẳng chịu”. biết nó là “vàng hay đồng”. Tú Xương không chỉ là nhà thơ trữ tình mà còn là nhà văn trào phúng nổi tiếng. Thơ ông không chỉ là những lời chửi rủa bọn quan lại phong kiến ngu dốt mà còn là những bài thơ tự trào. Trong đoạn thơ trên, nhà thơ mượn lời vợ để chửi mình là người chồng “hờ”, vô dụng, không nuôi được vợ mà ngược lại còn chất gánh nặng cuộc đời lên vai. của nhà hiền triết. Nhà thơ tự coi mình là kẻ vô tích sự cũng là một cách ca ngợi, tôn vinh vợ theo một cách chưa từng thấy trong thơ ca trung đại: “Vuốt râu nịnh vợ, con chôn mẹ/ Cau mày nhìn mặt em”. . Nét đặc sắc của hai câu kết bài là tiếng chửi nhưng vẫn mang ý giễu cợt, giễu cợt, tự trách nhưng vẫn là để bày tỏ sự đồng cảm với vợ.
Tú Xương và Nguyễn Khuyến là hai đại diện cuối cùng của văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỷ 19, là hai nhà thơ tiêu biểu và độc đáo cho thể thơ tự sự. Thơ ông với những cách tân mới về ngôn ngữ viết theo xu hướng khẩu ngôn, sử dụng ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn đảm bảo giọng điệu trữ tình và sức gợi, gợi cảm. “Thương vợ” là một bài thơ hay, có sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ bác học một cách tinh tế, phong phú khắc họa chân dung bà Tú và bộc lộ tâm trạng, tình cảm của ông Tú. xương cho vợ. Cùng với đó, lối ngắt nhịp truyền thống trong thơ Đường luật là 4/3 và 2/2/3 khiến lời thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển.
Bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương thể hiện tình cảm sâu nặng, tình cảm chân thành của nhà thơ dành cho cha mình. Trước Tú Xương, hiếm có nhà thơ nào có những bài thơ viết về vợ hay và sâu sắc như ông. Đoạn thơ không chỉ thể hiện một tâm hồn rộng mở, nhân hậu của nhà thơ đối với vợ mà còn thể hiện tài năng, bút pháp của một nhà thơ biết vận dụng sáng tạo ngôn ngữ dân gian.