Một số biện pháp nâng cao chất lượng tập làm văn cho học sinh lớp 4
PHẦN MỞ ĐẦU:
1/ Lý do chọn đề tài:
Tiếng Việt tiểu học là phân môn quan trọng nhất và chiếm số tiết nhiều nhất. Đây là môn học công cụ phục vụ cho các môn học khác, rèn luyện cho học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó phân môn Tập làm văn quan trọng nhất là rèn cho học sinh cách tư duy sáng tạo. Kết quả của phân môn này là kết tinh của các phân môn khác như tập đọc, chính tả, luyện từ và câu. Phân môn Tập làm văn có tác dụng to lớn vì nó diễn đạt được tất cả những gì con người nghĩ, nhìn thấy, cảm nhận thông qua các giác quan. Đối với học sinh tiểu học, phân môn Tập làm văn là một phân môn vô cùng khó. Đặc biệt với học sinh lớp 4. Nếu như ở lớp 2, lớp 3 các em chỉ học văn nói và văn viết là chủ yếu, các em được hỏi – đáp hoặc kể theo một nội dung về một chủ đề nhất định, chỉ cần diễn đạt trọn vẹn các ý, sắp xếp các ý thành đoạn văn về một chủ đề chứ không bắt buộc các em phải biết viết đủ ba phần bài văn. Sau đó, khi các em lên lớp 4, một bước ngoặt lớn buộc các em từ những gì đã quan sát được về các đồ vật, cây cối, con vật quen thuộc buộc các em phải tưởng tượng lại và sắp xếp các ý thành dàn ý để viết. thành văn bản hoàn chỉnh. Vì vậy, đa số các em chưa biết cách diễn đạt, liên kết các câu thành một đoạn văn, liên kết các đoạn văn thành một bài văn. chưa biết chọn bộ phận tiêu biểu, nổi bật của đồ vật, cây cối, con vật mà em định tả để tả. Không biết dùng từ nào để miêu tả, gợi cảm. Hầu hết họ chỉ liệt kê những quan sát của họ một cách khô khan. Nắm bắt được những điểm yếu mà các em còn gặp phải, tôi loay hoay tìm giải pháp khắc phục những khó khăn đó, làm sao để bài văn được hoàn chỉnh, đầy đủ ý, có tính chất miêu tả. sinh động, hấp dẫn,… Làm sao để học sinh hứng thú viết bài văn… Vì vậy, tôi đã mạnh dạn chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm:
” Giúp học sinh thực hiện các bài tập làm văn đạt kết quả tốt.
2/ Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
* Mục tiêu:
Với đề tài này, mục tiêu nghiên cứu chính là khái quát các dạng bài tập làm văn miêu tả lớp 4, nhằm nâng cao hiệu quả dạy học văn miêu tả. Hình thành các bước xây dựng một bài văn gồm ba phần. Cách tìm ý, tìm từ phù hợp trong từng văn bản. Cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật thể hiện bài văn hấp dẫn, sinh động. Từ đó giúp các em vận dụng linh hoạt trong quá trình làm các bài tập làm văn để tháo gỡ những khó khăn mà các em còn gặp phải, giúp các em không còn ngại, ngại viết.
* Nhiệm vụ:
Tìm hiểu thực trạng học tập và làm bài tập làm văn của học sinh lớp 4 để nhận ra những khó khăn, hạn chế mà các em thường gặp phải. Nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp thực hiện trong khi dạy học nhằm giúp học sinh hiểu đúng bản chất của vấn đề.
Giúp học sinh ngoài việc vận dụng kiến thức, kĩ năng dùng từ đặt câu còn có các kĩ năng khác như: phân tích đề, tìm ý và chọn ý, lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn. Đó chính là cách để làm một bài văn hay vượt qua khó khăn của bản thân một cách hiệu quả nhất, ngoài ra còn giúp học sinh hứng thú và vận dụng linh hoạt cách làm bài của mình.
I.3/ Đối tượng nghiên cứu : Học sinh lớp 4, Trường Tiểu học…
I.4/ Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Các kiểu bài văn miêu tả trong chương trình lớp 4
I.5/ Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu của đề tài, tôi mạnh dạn nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng các phương pháp sau:
1- Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu)
2- Phương pháp điều tra
3- Phương pháp phân tích tổng hợp
4- Phương pháp áp dụng thực nghiệm
5- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm
NỘI DUNG
II.1/ Cơ sở lý luận:
Trước hết chúng ta cần hiểu: Miêu tả là nêu đặc điểm của sự vật, hiện tượng bằng cách làm cho sự vật, hiện tượng đó xuất hiện trực tiếp (tái hiện) trước mắt người đọc (người nghe) một cách cụ thể, sinh động như: để người ta nhìn, nghe, ngửi, sờ. .
Đối với học sinh lớp 4, phân môn Tập làm văn thật khó đối với các em. Bởi vì, đây là môn học đòi hỏi sự sáng tạo. Nếu học tốt phân môn Tập làm văn, học sinh sẽ có cơ sở để tiếp thu và thể hiện các phân môn khác trong chương trình. Các em sẽ có tư duy mạch lạc, cách diễn đạt rõ ràng, khoa học, cảm nhận được cái hay, cái đẹp của cuộc sống, giúp các em phát triển năng lực trí tuệ, rèn luyện các thao tác tư duy. Khi tư duy phát triển, ngôn ngữ phát triển. Và ngược lại, ngôn ngữ càng phát triển thì tư duy càng phát triển nhanh. Vì vậy, ngôn ngữ càng hoàn thiện thì khả năng diễn đạt tư tưởng, tình cảm càng chính xác, khả năng nhận xét sâu sắc hơn, khả năng diễn đạt rõ ràng, chính xác tư tưởng, tình cảm của mình. . Để các em được hướng dẫn luyện tập thường xuyên, giáo viên cần phát huy tính độc lập, tư duy, sáng tạo của trẻ qua từng khâu: từ nêu chủ đề, hướng dẫn tìm hiểu chủ đề, hướng dẫn học sinh làm bài tập. Các em biết phải làm gì, viết gì để tự tin và có cảm hứng sáng tạo khi viết bài văn miêu tả. Qua đó góp phần bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, biết giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, tâm hồn Việt Nam, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam.
II.2/ Hiện trạng:
Năm học……, khi nhà trường phân công giáo viên chủ nhiệm lớp 4A với tổng số 24 học sinh. Trong quá trình dạy Tập làm văn, tôi nhận thấy nhìn chung học sinh nắm được cấu trúc của một bài văn miêu tả nhưng bài viết còn rập khuôn, ít hấp dẫn, ít cảm xúc, nghèo nàn hình ảnh. Đặc biệt các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ, nhân hóa, biện pháp nghệ thuật so sánh. thiếu ý, thiếu chi tiết,…; không biết dùng từ gợi tả, gợi cảm; vốn liếng nghèo nàn. Vì vậy, văn viết của các em thường cộc lốc, vụng về, khô khan, nghèo nàn về cảm xúc. Bài văn trở thành một bản liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả. Trước tình hình đó, tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp các em làm bài văn đúng yêu cầu và giàu cảm xúc.
- Ưu điểm và nhược điểm:
* Thuận lợi :
Trường tiểu học ….. đa số học sinh hiếu học, gia đình quan tâm đến việc học tập của con em. Đời sống nhân dân tương đối ổn định. Ban giám hiệu tạo mọi điều kiện tốt cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Giáo viên nắm rõ nội dung chương trình, nhiệt tình giảng dạy.
* Cứng :
Một số học sinh còn hiếu động, mải chơi, chưa tập trung trong học tập. Một số gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình. Các em còn ngại khó, lười suy nghĩ, ngại đến lớp tập viết. Vì vậy, không đáp ứng được yêu cầu của phân môn Tập làm văn.
Thành công – hạn chế:
* Thành công:
Trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, đặc biệt là dạy Tập làm văn, phương pháp vấn đáp gợi mở luôn được sử dụng. Phương pháp này giúp trẻ phát triển tư duy, hình dung và nhớ lại những gì đã quan sát được. Trẻ ở độ tuổi tiểu học nên có tư duy và cách dùng từ ngây thơ, ngộ nghĩnh, dễ vận dụng các biện pháp nhân hóa, so sánh sao cho sự vật được miêu tả gần gũi với trẻ. hơn. Ngoài ra, giáo viên còn sử dụng thêm các phương pháp hỗ trợ thực hành, phương pháp giảng dạy minh họa để giúp học sinh hiểu rõ vấn đề, khắc phục những khó khăn, sai sót thường gặp, nâng cao chất lượng bài làm. viết hiệu quả hơn.
* Giới hạn:
Trong thể loại văn miêu tả lớp 4 được chia thành: tả đồ vật, tả cây cối và tả con vật. Mặc dù đây là những đồ vật được mô tả khá quen thuộc và gần gũi với trẻ nhưng trẻ lại thiếu kỹ năng ngôn ngữ để mô tả những gì trẻ quan sát được. Ở một số em tìm được từ ngữ miêu tả nhưng diễn đạt vụng về hoặc chưa gợi tả, gợi cảm làm cho bài văn miêu tả nặng về tự sự, liệt kê sự việc chính. Vì vậy, bài viết của các em thường thiếu hồn, thiếu sáng tạo.
Giải pháp, biện pháp
Mục tiêu của giải pháp, biện pháp :
Mục tiêu của giải pháp là làm sao giúp học sinh phát triển kĩ năng nhận biết các kiểu bài văn miêu tả. Nắm được cách làm bài văn miêu tả theo yêu cầu đề ra ngoài ra còn giúp các em phát huy trí tưởng tượng, tư duy sáng tạo, tư duy logic để làm bài văn đạt yêu cầu về nội dung và nghệ thuật. nghệ thuật và giàu cảm xúc.
- Nội dung, phương thức thực hiện các giải pháp, biện pháp:
Để gây hứng thú cho học sinh khi học phân môn này, trước hết tôi chuẩn bị tốt cho học sinh làm quen với từng dạng bài. Bước đầu nắm vững bố cục của bài văn. Với mỗi dạng bài, tôi nghiên cứu và đưa ra quy trình giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản, thực nghiệm qua một số ví dụ cụ thể với các dạng bài khác nhau và cuối cùng là luyện viết tự luận trên lớp. mỗi hình thức.
Với mỗi kiểu bài văn miêu tả, tôi giúp học sinh nhận thấy: Đủ nội dung, phong phú là yêu cầu tất yếu của một bài văn. Để thực hiện được yêu cầu này, ngoài việc giúp học sinh nhận biết cấu trúc của một kiểu bài theo cách đã học qua bài văn mẫu, giáo viên cần hướng dẫn chung cách làm một bài văn theo các bước sau:
1- Xác định đối tượng cụ thể cần tả.
2- Quan sát đối tượng định tả theo một trình tự nhất định và ghi lại các đặc điểm đó.
3- Lập dàn ý chi tiết cho một bài văn có 3 phần: Mở bài – Thân bài – Kết luận
4- Kiểm tra, chỉnh sửa dàn ý
5- Tập làm văn
6- Chuẩn bị tốt phần củng cố trong soạn bài
7- Thực hiện hiệu quả bài dạy giao bài
* Các bước hướng dẫn học sinh khi làm từng dạng bài cụ thể như sau:
Đầu tiên- Chỉ rõ đối tượng được miêu tả:
Căn cứ vào yêu cầu của đề để chọn đối tượng miêu tả cụ thể. Lưu ý học sinh nên chọn những đồ vật, con vật, cây cối quen thuộc để dễ miêu tả và việc lồng cảm xúc vào bài văn sẽ tự nhiên hơn.
- Đối với bài văn miêu tả con vật : Nên chọn những con vật nuôi trong nhà như chó, mèo, gà, lợn, v.v.
- Đối với bài văn miêu tả đồ vật : Nên chọn những đồ vật là đồ chơi, đồ dùng học tập, vật dụng trong nhà hoặc quà tặng như búp bê, ô tô đồ chơi, cặp, bút, đồng hồ, v.v.
- Đối với bài văn tả cây cối : Nên chọn các loại cây ăn quả, cây có hoa trong vườn nhà hoặc cây bóng mát trong sân trường như: xoài, mít, sầu riêng,…; hoa hồng, hoa ly, hoa cúc,…; cây bàng, cây phượng…
2- Quan sát đối tượng định tả theo một trình tự nhất định và ghi lại các đặc điểm đó.
Có nhiều cách để quan sát đồ vật, con vật, cây cối mà ta định tả. Tuỳ theo đối tượng và thời điểm miêu tả mà quan sát theo trình tự hợp lí. Tuy nhiên cần nhớ một yêu cầu quan trọng là: quan sát và miêu tả những bộ phận nổi bật, đặc trưng của đối tượng được miêu tả sao cho nó toát lên những đặc điểm riêng, để phân biệt với những đối tượng khác. những thứ khác cùng loại. Quan sát bằng nhiều giác quan: mắt, tai, tay… và phải biết ước lượng đối tượng miêu tả. Đặc biệt, giáo viên cần có hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh tìm ra chi tiết và dễ dàng tái hiện chi tiết khi làm bài. Hướng dẫn học sinh sắp xếp các chi tiết quan sát được theo trình tự đã chọn một cách tự nhiên, dễ hiểu để người đọc, người nghe cảm nhận được sự vật được miêu tả một cách rõ ràng, cụ thể nhất.
- Đối với bài văn miêu tả con vật : Ngoài tả hình dáng con vật, học sinh cần quan sát hoạt động, thói quen của con vật được tả.
Ví dụ: Với chủ đề “Tả con gà trống của em” Bạn có thể sử dụng hệ thống câu hỏi và sắp xếp các chi tiết theo trình tự sau:
* Mô tả hình dạng:
Gà là giống gà gì? Khoảng bao nhiêu kg?
– Con gà trống có những bộ phận nào? (đầu, mình, chân, đuôi,…)
– Đầu gà có những bộ phận nhỏ nào? (mào, mắt, mỏ,…) các bộ phận đó có màu sắc, hình dạng như thế nào?…
– Tôi lớn cỡ nào? Cánh gà có gì đặc biệt?
– Đuôi gà như thế nào? (hơi cong và có nhiều màu như 7 sắc cầu vồng…)
– Chân gà có đặc điểm gì? (chỉ có 4 ngón và cựa rất sắc…)
Móng gà dùng để làm gì?
* Tả hoạt động, thói quen của đàn gà:
– Con gà trống thường làm những hoạt động gì? (Vỗ cánh…gáy, ăn với gà nhỏ hơn,…)
– Nuôi gà có ích lợi gì?
Như vậy, để quan sát và miêu tả con gà, học sinh cần sử dụng các giác quan như: thị giác (Quan sát các bộ phận, thói quen của gà…), thính giác (nghe tiếng gà vỗ cánh và gáy,…)
- Đối với bài văn miêu tả đồ vật: Các đối tượng có thể được quan sát từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong hoặc từ trong ra ngoài,… Để giúp học sinh biết cách quan sát, giáo viên cần có các đồ vật cụ thể hoặc các đối tượng trong tranh để hướng dẫn các em.
Ví dụ : Với chủ đề “Miêu tả chiếc cặp” Bạn có thể sử dụng hệ thống câu hỏi và sắp xếp các chi tiết theo trình tự sau:
– Hình dáng, kích thước của cặp?
– Bạn có thể cho tôi biết các bộ phận của chiếc cặp?
– Những cái túi được làm bằng gì? màu sắc như thế nào?
– Mặt trước, mặt sau của cặp?
– Cặp thế nào?
– Bìa cặp, ổ khóa.
– Bên trong túi có mấy ngăn?
– Bạn bảo quản và sử dụng túi như thế nào?…
Như vậy, để quan sát được chiếc cặp giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng các giác quan như: thị giác (màu sắc, các bộ phận của cặp,..), thính giác (mở khóa cặp nghe tiếng “tách”,..). .), sờ (sờ vào túi có cảm giác trơn, mềm,…)
- Đối với bài văn tả cây cối: Có hai cách quan sát
– Quan sát đặc điểm hình dáng, các bộ phận của cây hoặc quan sát từng thời kỳ phát triển của cây.
Ví dụ : Với chủ đề “Cây bóng mát” Bạn có thể sử dụng hệ thống câu hỏi và sắp xếp các chi tiết theo trình tự sau:
– Con hãy kể tên các bộ phận của cây?
– Thân cây như thế nào?
– Rễ cây là gì?
Nêu đặc điểm của cành cây? Của tán lá? hình chiếc lá?
– Cây có hoa không? Tả hình dáng, màu sắc của hoa?
– Nêu lợi ích của cây xanh?
– Những hoạt động nào liên quan đến cây cối?
Để quan sát cây cối, học sinh cũng cần sử dụng các giác quan như: thị giác (quan sát dáng cây, thân, cành, tán lá,…), thính giác (nghe tiếng gió thổi, lá rơi, tiếng chim hót,…) , sờ (sờ vào thân thấy sần sùi,…), nếu cây có hoa, quả cần dùng khứu giác (ngửi thấy mùi thơm của hoa, quả,…), vị giác (thấy vị ngọt hay vị chua của trái cây, v.v.) …)
3- Lập dàn ý chi tiết cho một bài văn gồm 3 phần: Mở bài – Thân bài – Kết bài:
3.1/ Đại cương:
Yêu cầu tối thiểu của một bài văn là phải có bố cục hoàn chỉnh tức là đủ 3 phần: Mở bài – Thân bài – Kết luận. Đối với mỗi kiểu bài văn miêu tả cần bám sát các ý chính trong dàn bài chung như sau:
- Đối với bài văn miêu tả con vật :
* Khai mạc: Giới thiệu con vật được miêu tả (Con vật gì? Có từ bao giờ? Nó từ đâu đến?…)
* Thân hình :
Tả đặc điểm hình thái bên ngoài của con vật. (Đầu, mình, chân, đuôi, màu lông,…)
– Tả hoạt động, thói quen của con vật (Nó thường làm gì? Cho ăn hay ngủ,…)
* Kết thúc : Nêu ích lợi của con vật và cảm nghĩ của người tả đối với con vật đó.
- Đối với bài văn miêu tả đồ vật :
* Khai mạc : Giới thiệu đối tượng miêu tả (Là gì? Có từ bao giờ? Từ đâu đến?…)
* Thân hình :
– Tả hình dáng bên ngoài của đồ vật. (Nó làm bằng chất liệu gì? Màu gì?…)
– Tả chi tiết từng bộ phận của đối tượng (Có thể tả lần lượt từ ngoài vào trong hoặc từ trên xuống dưới…)
– Diễn tả hành động của đồ vật hoặc thói quen của bạn với đồ vật đó.
* Kết thúc : Nêu cảm nghĩ của em về đối tượng vừa miêu tả. Làm thế nào để tôi bảo quản và duy trì nó?
- Đối với bài văn tả cây cối :
* Khai mạc : Giới thiệu về loại cây được miêu tả (Là gì? Ai trồng? Ở đâu? Trồng từ bao giờ?…)
* Thân hình :
– Tả hình dáng chung của cây.
– Tả từng bộ phận của cây hoặc tả từng giai đoạn phát triển của cây. (Từ khi cây còn nhỏ, khi cây trưởng thành, đơm hoa kết trái, đến khi lớn và thu hoạch quả,…)
– Phối hợp trong khi tả cây là tả sự tác động của người, vật lên cây (Việc người chăm sóc, chơi đùa dưới gốc cây,… Các yếu tố tự nhiên khác như chim, ong, bướm,…), nắng, gió tác động cây, …)
* Kết thúc Nêu tác dụng của thực vật. Sự chăm sóc hay tình cảm của người tả đối với cây.
3.2/ Trong quá trình miêu tả cần vận dụng một số biện pháp nghệ thuật đã học để bài văn có hồn, sinh động hơn:
- Luyện diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh nghệ thuật:
Để dễ tiến hành, tôi gợi ý cho học sinh trong các tiết luyện tập xây dựng đoạn văn với câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ. Tôi luôn hướng dẫn các em chọn chi tiết, diễn đạt câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp nghệ thuật đã học như so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, đảo ngữ, v.v.
* Tả con vật: Em có thể tả hình dáng con vật kèm theo tính chất hoặc hoạt động, đồng thời lồng cảm nghĩ của mình đối với con vật em tả.
Ví dụ: Tả con gà trống mà em chăm sóc và viết: Đuôi của anh ta có nhiều màu sắc và hơi cong. Nhưng để câu văn thêm sinh động, tôi hỏi lại bạn:
– Hình ảnh chiếc đuôi gà trống sặc sỡ gợi cho em liên tưởng đến hình ảnh nào? (bảy sắc cầu vồng)
– Những hình ảnh này gợi lên trong bạn những cảm xúc và suy nghĩ gì? (Nó thực sự đẹp mắt).
Sau đó, tôi đã sửa nó: Chú có chiếc đuôi cong vút như bảy sắc cầu vồng xuất hiện trên bầu trời sau những cơn mưa rào mùa hạ, trông rất vui mắt.
* Đoạn văn miêu tả đồ vật : vâng tôi đã viết: Con gấu bông đó thật dễ thương. Nó có bộ lông màu hồng mềm mại những chấm đen ở lòng bàn chân.
Sau khi HS nêu. Tôi yêu cầu học sinh nhận xét với các gợi mở sau:
– Các đối tượng mà chúng ta mô tả nên gọi là gì?
– Khi miêu tả ngoại hình của nó, em nên miêu tả như thế nào để gây hứng thú cho người đọc?
Sau đó tôi đính chính lại: ” Con gấu bông đó thật dễ thương. Anh ấy mặc một chiếc áo sơ mi nhung màu hồng mềm mại càng làm tăng thêm sức hấp dẫn của anh ấy”. .
* Đoạn văn tả cây cối: Tôi đã viết: Vườn hoa của em có rất nhiều loại hoa, mỗi loài có một màu sắc khác nhau.
Nhưng để câu văn thêm sinh động, tôi hỏi lại bạn:
– Hình ảnh vườn hoa nhiều màu sắc gợi cho em liên tưởng đến hình ảnh nào?
– Những hình ảnh này gợi lên trong bạn những cảm xúc và suy nghĩ gì?
Sau đó, tôi đã sửa nó: Vườn hoa như một chiếc mâm khổng lồ, trên đó đủ loại hoa đua nhau khoe sắc như món ăn hấp dẫn mà ai cũng muốn thưởng thức.
Như vậy, đối với các kiểu văn miêu tả, học sinh cần sử dụng một số biện pháp nghệ thuật để bài văn miêu tả sinh động, hấp dẫn hơn.
- Cảm xúc trong văn bản:
Một bài văn hay không thể thiếu cảm xúc của người viết. Cảm xúc không chỉ thể hiện ở phần kết bài mà còn thể hiện trong từng câu, từng đoạn của bài viết. Điều này, ở các tiết học trước khi viết bài văn, tôi đã lấy ví dụ cụ thể, nêu khái niệm cảm nghĩ của mình trước sự vật, hiện tượng để các em hiểu và vận dụng vào bài viết.
Ví dụ : Đối với bạn gấu bông là đối tượng như thế nào? (Nó giống như một người bạn thân động viên và an ủi tôi khi tôi bị điểm kém). Bạn cảm thấy thế nào khi đến thăm các con vật ở sở thú?
Tôi thường yêu cầu học sinh nêu suy nghĩ, cảm nhận, nhận xét về một hiện tượng nào đó. Vì vậy, bài văn của học sinh không hề khô khan, liệt kê các sự kiện mà thấm đượm cảm xúc của người viết.
4- Kiểm tra, chỉnh sửa dàn bài:
Khi lập dàn ý lưu ý học sinh không được vội viết ngay vì như vậy các ý sẽ lộn xộn, khó sắp xếp. Đây là một bước quan trọng trước khi viết một bài luận. Vì để có một bài văn hay, lôi cuốn người đọc thì trước hết các tình tiết phải logic, trình tự, chặt chẽ. Muốn vậy phải rà soát lại các ý, xác định chi tiết nào chính, chi tiết nào phụ, phần nào viết trước, phần nào viết sau. Tuy nhiên, tùy theo ý của người viết, có thể sắp xếp các ý theo thứ tự riêng.
Ví dụ: Khi sắp xếp các ý trong bài văn miêu tả con vật, có thể tả hình dáng trước rồi tả hoạt động, thói quen của con vật sau. Hoặc có thể xen kẽ giữa tả hình dáng và tả hoạt động, thói quen của nó.
5- Tập làm văn:
Đây là bước quan trọng nhất và cũng khó khăn nhất. Trên cơ sở dàn bài đã có, học sinh viết câu văn, đoạn văn và hoàn chỉnh bài văn. Chữ viết phải ngay ngắn, ý phải trong sáng, rõ ràng, rành mạch. Lại phải biểu cảm linh hoạt, sinh động, gợi cảm. Để đạt được điều đó, các em phải dựa vào sự quan sát tỉ mỉ, tư duy và lựa chọn cách diễn đạt hay nhất.
Một bài văn hay phải có bố cục chặt chẽ: mở bài, thân bài, kết luận. Lời giới thiệu như một lời chào thân ái của chúng tôi gửi đến du khách đến thăm “vườn văn” của chúng tôi. Lời mời phải hấp dẫn, có tính gợi mở, gây cảm xúc ban đầu nhẹ nhàng, nêu được ý đồ thể hiện trong toàn bài.
- Khai mạc: Có hai cách mở thẻ: trực tiếp hoặc gián tiếp
Các em có thể vào bài trực tiếp hoặc gián tiếp, có thể mở bài bằng câu văn hoặc đoạn văn nhưng phải bám sát nội dung yêu cầu đã xây dựng. Căn cứ vào cách mở của từng học sinh mà giáo viên gợi ý, không gò bó, áp đặt.
Ví dụ : Khi miêu tả chiếc đồng hồ
+ Có bạn vào thẳng chủ đề: Trong gia đình em có rất nhiều thứ nhưng em thích nhất là chiếc đồng hồ báo thức. (Mở bài chỉ một câu nhưng đủ ý)
+ Một số HS mở bài hơi dài nhưng sinh động, gây ấn tượng ngay từ phút đầu:
“Reng…reng…Bà già! Chỉ cần thức dậy và tập thể dục. “Ôi chao! Đây là đồng hồ báo thức. Mỗi sáng nó đánh thức tôi dậy lúc sáu giờ. Nó báo trước một ngày mới cho tôi.
Ví dụ: Tả một con vật mà em thích
+ Có bạn vào thẳng chủ đề: Trong gia đình em có rất nhiều con vật, nhưng em thích nhất là con mèo tam thể.
+ Kết bài gián tiếp: Cả nhà em đều yêu quý động vật. Gia đình tôi có nuôi chó, mèo, chim, cá cảnh và hai con sáo hót rất hay. Nhưng người bạn thân nhất đón tôi từ cổng mỗi khi tôi về nhà là một chú cún con.
Ví dụ: Để lại những cái cây
+ Có bạn vào thẳng chủ đề: Nhà em trồng nhiều loại cây ăn quả nhưng em thích nhất là cây sầu riêng.
+ Có kết bài gián tiếp: Buổi chiều em cùng bố mẹ đi dạo trên bãi biển. Ở đây có rất nhiều cảnh mà tôi thích, nhưng tôi chỉ thích ngồi dưới bóng những hàng dừa san sát để tận hưởng làn gió biển mát rượi.
Từ đó rút ra kết luận để học sinh hiểu rằng: Vào mở bài theo kiểu trực tiếp hay gián tiếp các em cũng phải bám sát yêu cầu của đề để viết được một bài văn có nội dung hay và nghệ thuật cao. Đối với học sinh khá giỏi nên khuyến khích mở bài theo cách gián tiếp.
- Thân hình :
Sử dụng cấu trúc của dàn ý để viết phần thân của bài luận với tất cả các chi tiết.
– Về cách dùng từ, phải dùng chính xác, chặt chẽ và biết chọn những từ hay nhất để câu văn có hồn.
Ví dụ : Khi tả bông hoa, có em tả:
+ nụ hoa” Tương ớt “nở hoa như giọt sương.
+ Hoa quỳ nở” màu vàng rực rỡ “trong gió” ồn ào “.
Về viết câu cần linh hoạt, không viết theo công thức đơn điệu, khi viết nên đổi chủ ngữ cho câu:
Ví dụ : Hai bên đường ngập tràn hoa hướng dương .
Có thể đổi quà: Hoa dã quỳ khoe sắc vàng rực rỡ hai bên đường .
Hoặc: Gà mẹ dang rộng đôi cánh che chở đàn con .
Có thể đổi quà: Những chú gà con vội vàng rúc vào đôi cánh dang rộng của mẹ
– Để viết câu văn hay cần sử dụng biện pháp nhân hóa, so sánh.
Ví dụ về so sánh :
+ Những giọt sương đọng trên cánh hoa long lanh như hạt ngọc.
+ Lông đuôi vừa dài vừa óng ả, hợp với đôi cánh như hai con hến khổng lồ nằm nghiêng.
Ví dụ về nhân cách hóa:
+ Lá trong vườn vẫy bạn nhỏ.
+ Dáng đi của trống đồng chậm rãi, uy nghiêm như một thủ lĩnh.
Như vậy, sau khi dùng từ đúng để đặt câu đúng ngữ pháp, linh hoạt. Học sinh liên kết các câu với nhau thành đoạn văn, sau đó liên kết đoạn văn thành phần thân bài. Lưu ý, mỗi đoạn tả một bộ phận cụ thể của đồ vật, con vật, cây cối.
Ngoài ra, cần chú ý đến cảm xúc của người viết khi miêu tả những sự việc trên.
- Kết thúc: Có hai cách kết thúc: Kết thúc mở rộng và không mở rộng
Có nhiều cách kết bài khác nhau nhưng đều xuất phát từ nội dung chính. Nó nhắm mắt người đọc những cảm xúc dâng trào, những hình ảnh đẹp đẽ mà họ miêu tả trong bài viết của mình. Kết bài như một lời chia tay người khách vừa ghé thăm “vườn văn” của mình trong tình cảm, chân thành và đầy lưu luyến. Vì vậy, khi viết phần kết luận phải hết sức ngắn gọn, tránh kết luận cộc lốc, hình thức.
Thực ra họ chỉ liệt kê theo cảm tính thôi (Kết luận không mở rộng)” tôi yêu con chó đó “. Tôi đã gợi ý để các em nêu (Kết bài mở rộng): “” Con chó đã sống với gia đình tôi trong một thời gian dài. Nó rất ngoan ngoãn, tôi hy vọng nó lớn lên sẽ ngoan ngoãn và trung thành hơn với chủ của mình. Chả trách ai cũng nói chó là loài vật rất trung thành và trung thành ”
Hay với bài văn tả hoa đào, em kết bài: Em rất thích hoa đào, mỗi dịp tết đến nhà em đều mua một cành đào . Tôi đề nghị bạn viết lại cái kết có hồn hơn: Đã thành truyền thống, hoa đào là biểu tượng mùa xuân của miền Bắc và của cả nước ta. Nhìn hoa đào là biết xuân đã về. Những người con xa quê chuẩn bị trở về với gia đình thân yêu
Sau khi trải qua các bước trên, trong trí tưởng tượng của các em đã phác họa được chân dung của hiện tượng được miêu tả. Một trong những minh chứng cho điều này là các em đã ghi nhớ nhiều chi tiết, hình ảnh, biết sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, thổi hồn vào sự vật, hiện tượng một cách gần gũi, sinh động… Thể hiện tự do, không gò bó và đầy tính sáng tạo .
Sau mỗi tiết thực hành, tôi cho học sinh nói về bài làm của mình trước cả lớp. Ý nào hay cả lớp phát huy, ý nào chưa thỏa đáng HS nhận xét, GV nhận xét bổ sung. Từ đó giúp các em rút kinh nghiệm và dễ dàng viết bài văn miêu tả.
6- Chuẩn bị kĩ phần củng cố trong các bài tập làm văn :
Củng cố bài học là phần không chiếm nhiều thời lượng trong toàn bài nhưng lại là lúc giáo viên tổng kết lại toàn bộ nội dung kiến thức của bài học và mở ra hướng kiến thức mới cho bài học tiếp theo nên rất quan trọng. phải chú ý đến phần cốt thép. Tiết học hấp dẫn, thu hút sự chú ý của các em.
Như trên đã nói, cần giúp học sinh nhìn sự vật ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của các em. Vì vậy, ở phần củng cố, giáo viên không nên đưa ra các bài văn mẫu hoàn chỉnh để học sinh bắt chước, sao chép, dễ tạo cho các em làm văn sáo rỗng, na ná nhau mà nên cho các đoạn văn. miêu tả của các tác giả khác nhau. Trong cùng một tiết học, có thể đưa ra những đoạn văn miêu tả toàn diện, phong phú hơn và từ đó, học sinh sẽ biết chắt lọc, tìm tòi những chi tiết đặc sắc, học được những câu văn, từ ngữ, biện pháp hay. cách diễn đạt phù hợp với công việc của mình.
Các đoạn văn đưa ra không nên quá dài hoặc quá ngắn vì nếu dài quá học sinh khó tiếp thu, ngắn quá sẽ không đảm bảo nội dung. Trong đó, các đoạn văn phải được diễn đạt mạch lạc, đúng cấu trúc ngữ pháp, từ ngữ giản dị, câu văn giàu hình ảnh và phải mẫu mực cả về nội dung và hình thức.
Khi cho đoạn văn mẫu cần phân tích, đánh giá để học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong từng đoạn văn, giúp học sinh nhận ra nội dung miêu tả, sự khác biệt trong miêu tả và nét độc đáo của bài văn. sáng tác văn học.
Ví dụ: Đọc cho học sinh đoạn văn “Cà chua” của Ngô Văn Phú
“Cà chua trĩu quả, xum xuê, chít chít, quả to nhỏ vui mắt như đàn gà mẹ đông con. Một quả, chùm quả, đôi quả, ba chùm quả, bốn chùm quả. Quả ở trên thân, dây leo lên đến ngọn và trĩu xuống cả những cành to nhất…”
Phân tích: Đoạn văn ngắn gọn nhưng miêu tả khá sinh động về quả cà chua
Tác giả miêu tả một quả cà chua, một chùm cà chua. Các từ “sang”, “chít chít” và các hình ảnh “quả đôi, quả chùm ba, chùm quả bốn” gợi tả cây cà chua, luống cà chua tốt tươi, trĩu quả, trĩu cành. Quả cà chua được nhân hóa “trèo ngược”. Tác giả so sánh chùm cà chua quả to quả nhỏ “vui như đàn gà có nhiều gà con”. Cách miêu tả hóm hỉnh, thú vị. Nó làm nên vẻ đẹp độc đáo của đoạn văn miêu tả này.
Việc đưa ra một đoạn văn mẫu cùng với sự phân tích rõ ràng như vậy sẽ giúp học sinh hình dung về đối tượng miêu tả một cách cụ thể và sinh động hơn, giúp học sinh vận dụng cách đặt câu trong bài viết của mình. .
7- Thực hiện có hiệu quả việc chấm và trả lời:
Mỗi dạng bài thường có một khoảng kiểm tra để học sinh luyện viết. Quá trình luyện tập đó cần được xem xét, đánh giá, rút kinh nghiệm một cách thận trọng, nghiêm túc thì mới có tác dụng rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh. Tổ chức rút kinh nghiệm khi trả bài là thực hiện khâu cuối cùng của “kiểm tra, đánh giá” nhằm giúp học sinh nắm được nhận xét chung của giáo viên về kết quả bài viết của cả lớp và liên hệ với các em. với công việc của bạn. Giúp học sinh biết sửa lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu, diễn đạt…, bố cục của mình và của người khác. Ngoài ra, học sinh có thể học được những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Vì mục đích như vậy, không thể cường điệu hóa thời gian hoàn trả, ít hơn nhiều so với thời lượng.
– Khi chấm bài, em luôn tâm niệm phải làm bài nghiêm túc, cẩn thận, chính xác vì bài văn là kết quả lao động sáng tạo Của trẻ em. Người thầy cần chắt lọc thành công của học sinh dù là nhỏ nhất. Không được phiến diện, chung chung hay nóng giận, hậm hực, có những lời phê bình trái chiều trong bài làm ảnh hưởng đến quyền lợi, niềm tin của học sinh.
Tuy nhiên, tôi không lấy những suy nghĩ cảm nhận của mình làm khuôn mẫu, tiêu chuẩn để áp đặt đánh giá học sinh mà tôn trọng, khuyến khích cái riêng, cái mới, cái riêng trong mỗi bài viết của các em.
Đối với học sinh yếu, kém, tôi chỉ ra lỗi sai nặng nhất, không bao giờ gạch bỏ cả bài, tránh làm các em thất vọng, chán nản. Tìm và phát hiện kịp thời những cái hay, cái tiến bộ trong từng bài viết của bạn. Tôi không bao giờ tiết kiệm lời khen khi đánh giá bài làm của học sinh, đau đớn trước mọi lời phê bình. Khi phát hiện câu văn hay, ý nghĩ độc đáo, sáng tạo, em nhận xét (viết vào phần nghị luận được trình bày trong vở Tập làm văn), chẳng hạn: “Hiểu đề, bài viết có cảm xúc”, “Câu văn có hình ảnh”, “Bài viết đặc sắc”
Trong các tiết trả bài, ngoài việc tiến hành theo trình tự như trong SGK, tôi thường xuyên thay đổi hình thức hoạt động để học sinh bớt nhàm chán. Sau khi nhận xét chung, tôi sửa lỗi cho học sinh theo từng dạng lỗi thống kê khi chấm bài kiểm tra: lỗi Chính tả, dùng từ, đặt câu, các lỗi khác .Và nêu những câu văn, đoạn văn hay đã chuẩn bị trước. Sau đó, tôi trả bài và có thể tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm để trao đổi với bạn về cách làm bài của mình, đọc câu văn của nhau hoặc giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó, học sinh sẽ thấy rõ ưu điểm, khuyết điểm trong bài làm của mình và của bạn và biết cách sửa chữa hoặc viết lại đoạn văn của mình cho đúng yêu cầu. Sau những lần trao đổi như vậy cũng sẽ giúp các em tránh được những lỗi không đáng có trong tập làm văn và trong giao tiếp hàng ngày.
4 Kết quả thu được qua thực nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Qua một số năm tổ chức trò chơi cho học sinh cuối giờ TLV, tôi thấy kết quả như sau:
- Hầu hết học sinh lớp tôi phụ trách đều làm được bài văn đầy đủ.
- Hầu hết cả lớp đã biết dùng từ gợi tả.
- Rất ít học sinh viết câu sai ngữ pháp.
- Học sinh tự giác, tự tin khi tham gia các hoạt động trên lớp.
- Tạo không khí thoải mái, hứng thú học tập ở học sinh.
Tạo nề nếp thi đua trong học tập một cách sôi nổi, hào hứng.
Qua thời gian vận dụng các giải pháp trên vào dạy học phân môn Tập làm văn, tôi nhận thấy học sinh hứng thú, yêu thích học tập làm văn đặc biệt là văn miêu tả. Nhiều em biết viết bài văn có hồn, giàu cảm xúc và sáng tạo. Như vậy, ngoài nhiệm vụ chính là biết cách viết một bài văn, học sinh được chủ động, tự do thể hiện rõ ràng, đầy đủ cái “tôi” của mình.
Để kiểm tra tính hiệu quả của các giải pháp mà tôi đã áp dụng, tôi đã tiến hành khảo sát bằng một bài kiểm tra đối với học sinh của mình và kết quả như sau:
……………………..
Qua kết quả trên cho thấy việc dạy học sinh nắm được các bước làm một bài văn miêu tả đã thực sự góp phần nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn. Nhiều bài viết của các em tiến bộ rõ rệt, viết được bài văn miêu tả giàu hình ảnh, đặc biệt nhiều em đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật như: nhân hóa, so sánh, điệp ngữ, điệp ngữ… Bài làm sinh động, có cảm xúc chân thực. Vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra những kinh nghiệm, biện pháp thông qua Sáng kiến kinh nghiệm của mình để giáo viên tham khảo, nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn lớp 4 hiện nay.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
- Kết luận :
Để nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn nói chung và phân môn làm văn miêu tả nói riêng, giáo viên cần làm tốt một số vấn đề sau:
Để dạy học sinh cách làm bài văn miêu tả, người giáo viên phải nghiên cứu, đọc nhiều tài liệu, sách tham khảo để tìm ra cách giải tối ưu nhất. Sau đó sắp xếp thành một quy trình có hệ thống các bước viết để học sinh dễ hiểu, nhẹ nhàng và hiệu quả.
Để học sinh hứng thú viết văn, người giáo viên không chỉ có vai trò dẫn dắt các em nắm chắc bố cục, yêu cầu của từng kiểu bài mà còn phải gần gũi, tiếp cận bài viết của học sinh để kịp thời sửa chữa, bổ sung. nhằm giúp học sinh tự tin trong quá trình làm bài.
Trong quá trình giảng dạy, nếu giáo viên phát hiện được những sai lầm, khó khăn của học sinh, tìm ra nguyên nhân của những sai lầm, khó khăn đó, tìm biện pháp khắc phục kịp thời thì hiệu quả giờ học nhất định sẽ được nâng cao.
– Giáo viên phải hiểu được tầm quan trọng của việc luyện viết.
– Phải chuẩn bị tốt khi đến lớp.
– Phải biết tổ chức các hoạt động của lớp nhẹ nhàng, tạo không khí thoải mái cho học sinh.
– Đánh giá cao các hoạt động của học sinh.
– Tùy theo nội dung từng bài để chuẩn bị nội dung cho phù hợp.
Tóm lại, tổ chức trò chơi sau tiết học Tập làm văn nhằm cung cấp cho học sinh một số ý, từ ngữ và khắc sâu nội dung phải có trong bài để bài viết có đầy đủ ý vận dụng một số từ ngữ có hình ảnh. Hình ảnh gợi cảm, gợi cảm đồng thời tạo không khí thoải mái, hào hứng trong lớp học, làm cho học sinh yêu thích môn học, từ đó chất lượng học tập ngày càng cao.
- Lời yêu cầu:
Để nâng cao chất lượng học sinh, giúp các em nắm chắc kiến thức và vận dụng vào thực tiễn, tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau:
1/ Về phía nhà trường:
Hiện nay, việc dạy học sinh làm tốt bài văn miêu tả là điều mà giáo viên còn lúng túng, nhất là về phương pháp dạy học. Vì vậy nhà trường cần thường xuyên tổ chức các chuyên đề dạy học phân môn Tập làm văn lớp 4 để giáo viên được trao đổi, học hỏi những kinh nghiệm quý báu của đồng nghiệp giúp cho việc dạy phân môn Tập làm văn được tốt hơn. Trong các giờ hội giảng, hội thi, nên khuyến khích giáo viên cho các em tập làm văn để cùng thảo luận tìm ra phương pháp hay.
2/ Đối với giáo viên :
– Không ngừng nâng cao trình độ của bản thân bằng cách tự học qua đồng nghiệp hoặc tham khảo thêm tài liệu hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Khi soạn giáo án cần chuẩn bị kỹ nội dung, đồ dùng, phương pháp dạy học.
– Mạnh dạn đưa ra các biện pháp củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh.
– Quan tâm đến tất cả học sinh.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong việc dạy học sinh lớp 4 viết bài văn hay. Trong quá trình nghiên cứu và trình bày chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong Hội đồng khoa học và các đồng nghiệp đóng góp ý kiến.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ TẢI FILE WORD